1. Công viên lịch sử L'Anse aux Meadows, Canada
Những bằng chứng sớm nhất về cuộc sống của người Viking (tộc người châu Âu đầu tiên ở Bắc Mỹ) được thể hiện rõ ở công viên lịch sử quốc gia L'Anse aux Meadows, đảo Newfoundland, Canada.
Các cuộc khai quật đã phát hiện thấy kiến trúc gỗ, căn nhà đắp than bùn giống những gì được tìm thấy ở Iceland và Greenland (Na Uy) trong cùng niên đại. Đây là nơi định cư đầu tiên và duy nhất của người Viking ở Bắc Mỹ.
Địa điểm này được chính phủ Canada bảo vệ từ năm 1977 và chỉ một năm sau đó, UNESCO đưa nó vào danh sách những di sản thế giới đầu tiên được công nhận.
2. Công viên quốc gia Nahanni, Canada
Nằm ở phía tây bắc, chạy dọc theo phía nam sông Nahanni và sông Flat, công viên quốc gia Nahanni là danh thắng đầu tiên của Canada được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Từ năm 1972, nơi đây đã được Canada quy hoạch thành công viên quốc gia và bảo vệ.
Công viên Nahanni có diện tích tự nhiên lên đến 476.520 ha, có hệ thống động - thực vật đa dạng, phong phú. Hầu hết mọi sinh vật được biết đến ở Bắc Mỹ đều có mặt tại đây như: chó sói, gấu xám Bắc Mỹ, tuần lộc, cừu Dall và dê núi... Có khoảng 40 loại động vật có vú và 170 loài chim ở công viên này.
Công viên còn nổi tiếng với hệ thống hang động đá vôi độc đáo, các thác nước khổng lồ điển hình ở Bắc Mỹ, đỉnh núi granite, hẻm núi sâu tới 1.000m và vết tích của các dòng sông cổ xưa.
3. Quần đảo Galapagos, Ecuador
Quần đảo Galápagos là một tập hợp gồm 13 đảo chính, 6 đảo nhỏ và 107 khối đá nằm ở phía tây ngoài khơi bờ biển Ecuador, thuộc Thái Bình Dương, với tổng diện tích 8010 km2.
Galapago theo tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là “con rùa”. Đây là tên do những nhà thám hiểm người Tây Ban Nha đặt cho quần đảo cái tên này.
Trên quần đảo có khu bảo tồn biển, nơi những loài sinh vật biển tuyệt vời như rùa biển nặng 400kg, hải cẩu, sư tử biển, chim cốc bay và cự đà biển... “Bộ sưu tập” sinh vật biển phong phú trên đảo Galapagos là nhờ 3 dòng hải lưu ở Thái Bình Dương giao hòa và gặp nhau tại đây. Khu bảo tồn sinh vật biển Galapagos đã được sáng lập vào năm 1986 trên một vùng rộng khoảng 70.000km và được mở rộng đến 133.000km vào năm 1998.
Đây cũng là quần đảo ghi đậm dấu ấn khoa học của Charles Darwin, góp phần quan trọng cho sự ra đời học thuyết tiến hóa của ông.
4. Thành phố cổ Quito, Ecuador
Được phát hiện ở Tây Ban Nha năm 1534, thủ đô của Ecuador ở Quito là thành phố đầu tiên được ghi danh trong danh sách Di sản thế giới của UNESCO. Ngày nay, nó đã trở thành trung tâm mua sắm Grande của Quito.
“Quito” là tên do những người dân sống ở khu vực này đặt trước khi bị người Tây Ban Nha xâm chiếm. Thành phố Quito được thực dân Tây Ban Nha thành lập vào nửa đầu thế kỷ 16 ngay trên tàn tích của thành cổ Inca.
Đến năm 1830, Quito trở thành thủ đô của Ecuador sau khi quốc gia Nam Mỹ này giành độc lập, thoát khỏi sự thống trị kéo dài 300 năm của thực dân Tây Ban Nha.
Mặc dù đây là khu vực phải hứng chịu nhiều cơn động đất, nhưng trung tâm lịch sử của Quito được bảo tồn cực kỳ tốt.
Du khách có thể thấy được phong cách nghệ thuật Baroc (là sự kết hợp giữa kiến trúc châu Âu và bản xứ) ở trường học tại Quito, trong cách tu viện của San Francisco và Santo Domingo, “Church and Jesuit College” ở La Companía. Thủ đô của Ecuador này được ví như “thánh tích của cả châu Mỹ” với kho tàng di sản khổng lồ.
Mang diện mạo của một thành phố hiện đại nhưng vẫn gìn giữ rất tốt những nét cổ kính, đó là yếu tố giúp Quito trở thành thành phố đầu tiên trên thế giới được UNESCO công nhận là di sản văn hóa vào năm 1978.
5. Công viên quốc gia Simien, Ethiopia
Công viên quốc gia Simien nổi tiếng bởi cảnh quan tráng lệ nhất thế giới: những đỉnh núi lạ thường, thung lũng sâu hun hút và các loài động vật quý hiếm.
Bạn sẽ tìm thấy loài dê rừng Walia (chỉ có ở công viên Simien), khỉ đầu chó Gelada quý hiếm, loài cáo Simien, báo đốm, linh cẩu đốm, chó rừng và 400 loài chim khác ở khu dự trữ sinh quyển này.
Công viên này đóng vai trò quan trọng vì sự đa dạng sinh học của nó. Có ý kiến cho rằng, công viên quốc gia Simien cạnh tranh được cả với Grand Canyon nổi tiếng ở Hoa Kỳ.
6. Nhà thờ tạc từ đá Bete Giyorgis, Ethiopia
Vào thế kỷ 12, khi đạo Hồi lấn át đạo Kito khiến cho những người Kito giáo không thể hành hương về nơi Đất Thánh, vua Lalibela đã quyết định xây dựng một “Jerusalem mới” ở vùng núi của Ethiopia.
Đó là nhà thờ tạc từ đá nguyên khối, nằm trên ngọn núi trung tâm, độ khoảng 645 km từ thủ đô Addis Ababa. Nhà thờ gồm 11 tòa giáo đường mang kiến trúc thời trung cổ, được hoàn thành trong thế kỷ 13.
Những giáo đường này không xây dựng bằng gạch hay đá bình thường và cũng như không có dấu vết của các mối nối trên tường. Thay vào đó, những giáo đường đã được tạc ra từ một khối đá rắn duy nhất. Khối đá rắn tiếp tục được đục khoét tạo thành cửa ra vào, cửa sổ, trụ cột, sàn, mái nhà... Ngoài ra, cũng có một hệ thống lối đi rộng rãi, rãnh hào, hang động và hầm mộ.
Ngày nay, nhà thờ do vua Lalibela xây dựng cùng ngôi làng truyền thống vẫn là một địa điểm hành hương, bày tỏ lòng sùng kính của các con chiên trung thành. Người Ethiopia thường nhảy nhót xung quanh nhà thờ đá Bete Giyorgis trong suốt lễ hội hàng năm của họ ở Timkat, Lalibela.
7. Nhà thờ lớn Aachen, Đức
Nhà thờ lớn Aachen là một nhà thờ Công giáo tại thành phố Aachen, miền Tây nước Đức. Đây là nhà thờlâu đời nhất ở Bắc Âu.
Nhà thờ được xây dựng dưới sự chỉ đạo của hoàng đế Charlemagne vào năm 768 TCN và hoàn thành vào năm 800, trở thành một trung tâm tôn giáo và văn hóa lớn.
Công trình này được đánh giá là một kỳ quan nghệ thuật nhờ sự sáng tạo của nó. Cách sắp đặt cột đá hoa cẩm thạch hình bát giác cao có mái vòm với 2 tầng và lốì đi 16 cạnh phỏng theo nhà thờ Byzantine San Vitalc ở Ravenna của Ý, nơi ngự trị của các vị Hoàng đế của Đế quốc Tây La Mã. Đáng tiếc là một tấm thảm cổ tuyệt đẹp đã bị phá hủy trong thời hiện đại.
Nhờ thờ Aachen còn là cột mốc lịch sử đánh dấu sự thống nhất phương tây dưới thời hoàng đế Charlemagne. Charlemagne được chôn tại nhà nguyện đó vào năm 814. 200 năm sau, ông được phong thánh.
8. Trung tâm lịch sử của Krakow, Ba Lan
Trung tâm lịch sử của Krakow có nguồn gốc từ một thị trấn thương mại hồi thế kỷ 13, có quảng trường rộng nhất và là một trong 4 trường đại học cổ nhất châu Âu. Ngày nay, nó là thành phố thủ đô của Ba Lan.
Boleslaw đã ra lệnh gọi tên thành phố cổ là Stare Miasto, quy hoạch trên mạng lưới giao thông quan trọng thời trung cổ năm 1257. Thành phố lịch sử này có nhiều di tích và những bộ sưu tập nghệ thuật vô giá. Nơi đây còn để lại nhiều dấu tích của một thành phố cổ phồn hoa đô hội, một thời vàng son lộng lẫy, nguy nga.
Lâu đài các vua Ba Lan được bắt đầu xây dựng từ thế kỷ 11 - 14 . Lâu đài Wawel cũng chứa kho báu quốc gia và nhà thờ kiểu gothic của St. Wenceslas, nơi tổ chức nhiều sự kiện quan trọng đối với các gia đình hoàng gia Ba Lan như: lễ đăng quang, đám cưới và đám tang.
Là một trong những trung tâm hàng đầu về khoa học, văn hóa và nghệ thuật của quốc gia, là kinh đô và nơi sinh sống trước đây của các vua Ba Lan, Krakow được nhiều người Ba Lan coi là thủ đô tinh thần do lịch sử hơn 1000 năm của thành phố.
Riêng Stare Miasto (một huyện cổ của Kazimierz) là khu vực sinh sống của người Do Thái ngày trước. Cộng đồng người Do Thái ở Kazimierz gồm 64.000 người đã bị đày đến Auschwitz và chi có 6.000 người trở về sau khi Thế chiến thứ II kết thúc.
9. Mỏ muối Wieliczka và Bochnia, Ba Lan
Mỏ muối Wieliczka và Bochnia ở Ba Lan là nơi lưu giữ những minh chứng tuyệt vời, vô giá về kỹ thuật khai thác mỏ từ thế kỷ 13 tới thế kỷ 20.
Khu vực mỏ muối được khai quật đã biến thành nhà kho, xưởng, nhà thờ St. Anthony với những bức tượng đá và đồ trang trí khác được khắc vào trong đá muối. Từ thế kỷ 19, khách du lịch đã biết và đến tham quan nơi này.
10. Đảo Goree, Senegal
Đảo Goree ở bờ biển của Senegal từng là trung tâm buôn bán nô lệ rộng nhất ở bờ biển châu Phi từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, ước tính có khoảng 20 triệu người châu Phi đã đi qua đảo này.
Đảo Goree bị cai trị bởi người Bồ Đào Nha, sau đó là Hà Lan, Anh và Pháp.
Người Hà Lan đã xây dựng “Nhà nô lệ” để tập trung thu mua – buôn bán nô lệ. Năm 1776, nhà nô lệ cuối cùng còn tồn tại được biết đến là ở trên đảo Goree.
Vì thế, đảo Goree cũng trở thành một di tích lịch sử mang dấu vết của chính quyền thực dân năm 1944. Từ đó về sau, trên đảo Goree không có bất kỳ công trình xây dựng nào bởi người ta không muốn hủy hoại sự thống nhất, nguyên vẹn của các yếu tố lịch sử trên đảo.
Đất nước Senegal giành độc lập vào năm 1960 và các đảo đã được ghi vào danh sách di sản quốc gia năm 1975.
11. Công viên quốc gia Mesa Verde, Hoa Kỳ
Công viên quốc gia Mesa Verde có những công trình đẹp mắt nằm ở quận Montezuma, phía tây nam Colorado. Đó là nơi cư ngụ của người da đỏ có niên đại từ thế kỷ 6 – 12, nằm trên độ cao hơn 2400m.
Những ngôi làng ấn tượng, nhà ở bằng đá được xây dựng trên đỉnh núi Mesa, những vách đá hùng vĩ, cheo leo. Có những ngôi nhà được xây thành nhiều tầng, có ban công và cả quảng trường. Đây cũng là bằng chứng về những kỹ thuật xây dựng và thủy lợi tiên tiến – điều quyết định sống còn tới sự sinh sống và tồn tại của những bộ tộc người da đỏ.
12. Công viên quốc gia Yellowstone, Hoa Kỳ
Yellowstone là công viên quốc gia đầu tiên của Hoa Kỳ, được thành lập vào năm 1872. Đây là một trong số ít những nơi có hệ nguyên sinh trong vùng ôn đới phía bắc ở trên trái đất.
Yellowstone được biết đến là nơi có nhiệt độ đất cao, hơn 10.000 nguồn nhiệt, chiếm khoảng một nửa trên thế giới. Nó có hơn 300 mạch nước nóng lộ thiên, một ngọn núi lửa và nhiều thác nước.
Đây là một môi trường sống hoàn hảo cho động vật hoang dã và một số loài động thực vật có nguy cơ tuyệt chủng cao nhất thế giới, một địa chỉ hoàn hảo cho việc bảo tồn, nghiên cứu và để du khách trải nghiệm hệ sinh thái vùng đất hoang.
Minh Minh/CNN