Vì sao gọi là chùa Thiên Mụ?
Đã có nhiều câu chuyện nói về lịch sử của Chùa Thiên Mụ - nơi có sự tích gắn liền với bước chân mở đường của vị chúa Nguyễn đầu tiên xứ Đàng Trong. Truyền thuyết kể rằng, khi vào Trấn thủ xứ Thuận Hóa, chúa Nguyễn Hoàng (1558 – 1613) đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này.
Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương ngược lên phía đầu nguồn, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại. Hỏi ra mới biết, ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê. Người dân địa phương cho biết, nơi đây có một bà lão mặc áo đỏ quần lục thường xuất hiện trên đồi và nói với mọi người rằng “Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh”, nói rồi bà biến mất. Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn (núi Thiên Mụ).
Tư tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như cùng bắt kịp được với ý nguyện của dân chúng. Sau khi vào trấn Thuận Hóa, chúa Nguyễn Hoàng một lần đi qua, nghe kể chuyện đã cho dựng một ngôi chùa trên đồi, ngoảnh mặt ra sông Hương, đặt tên là “Thiên Mụ Tự” (chùa Thiên Mụ) để nhớ tới bà tiên nhà trời trong lời kể của người dân.
Năm 1665 chúa Nguyễn Phúc Tần cho trùng tu. Năm 1710, chúa Nguyễn Phúc Chu cho đúc quả đại hồng chung cao 2,5m nặng 3285 kg, và năm 1715, chúa lại cho xây dựng tấm bia cao 2,58m đặt trên lưng con rùa bằng cẩm thạch. Vào thời Nguyễn, các vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Thành Thái đều cho trùng tu chùa. Tháp Phước Duyên (ban đầu được đặt tên là tháp Từ Nhân) được vua Thiệu Trị cho xây vào năm 1844. Tháp hình bát giác cao 7 tầng (21 m). Ðiện Ðại Hùng là ngôi chính điện trong chùa, một công trình kiến trúc đồ sộ nguy nga.
Trong điện, ngoài những tượng phật bằng đồng sáng chói còn treo một khánh đồng được đúc năm 1677 và một bức hoành phi bằng gỗ sơn son thếp vàng do tự tay chúa Nguyễn Phúc Chu đề tặng năm 1714. Hai bên chùa có nhà trai, nơi các sư tĩnh dưỡng và nhà khách để đón khách đến vãn cảnh chùa.
Trước các điện, quanh chùa là các vườn hoa cây cảnh xanh tươi, rực rỡ. Phía sau cùng là vườn thông tĩnh mịch, phong cảnh nên thơ. Chùa bị hư hỏng nặng năm 1943. Từ năm 1945, Hoà thượng Thích Ðôn Hậu đã tổ chức công cuộc đại trùng tu kéo dài hơn 30 năm.
Lời nguyền kim cổ
Chùa nằm cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5km, trên đồi Hà Khê, nằm bên dòng sông Hương thơ mộng, chùa Thiên Mụ mang nét thanh tịnh, nhẹ nhàng như con nước lững lờ trôi và làm lắng lòng của bao du khách đến nơi này. Với 108 tiếng chuông sáng ngày giữ nhịp thời gian và giải tỏa những khổ đau của chúng sinh, chùa Thiên Mụ luôn được xem là ngôi chùa linh thiêng bậc nhất xứ Huế, thế nhưng chốn này lại ám ảnh bao cặp tình nhân chỉ vì một lời nguyền kim cổ.
Giữa không gian uy nghiêm của đất Phật, du khách đến đây còn được nghe kể câu chuyện tình nức nở của ngày xưa.
Đó là một mối duyên không trọn vẹn của đôi trai gái bị gia đình ngăn cấm, để giữ trọn lời thề sống chết có nhau, họ đã nắm tay nhảy xuông dòng Hương tự vẫn, thế nhưng trớ trêu thay, khi trái tim chàng trai mòn mỏi đợi chờ người yêu nơi đáy nước thì người con gái đã được cứu sống và đang vui vầy duyên mới. Uất nghẹn vì sự phản bội của người yêu, hồn chàng trai trôi dạt đến chùa Thiên Mụ và đặt lời nguyền, hễ đôi tình nhân nào đến đây sẽ phải chịu cảnh chia lìa, còn những ai đang lẻ bóng thì sẽ tìm được một nửa thủy chung của đời mình, Lời nguyền nghe qua có vẻ cay độc và tàn nhẫn, có phải chăng là để thử thách tình yêu đôi lứa giữa những truân chuyên, bất trắc của cuộc đời, hay đơn thuần chỉ là lời truyền miệng của cố nhân?
Chẳng biết lời nguyền thực hư ra sao nhưng du khách vẫn luôn đến viếng chùa mỗi khi có dịp đến Huế, đứng trên chùa thả tầm nhìn ra giữa dòng sông, bỗng thấy lòng bình yên đến lạ. Sông Hương vẫn ngàn năm chảy mãi thì Thiên Mụ sẽ mãi còn đây để giữ gìn nét linh thiêng, trầm tư của đất Cố Đô.
Theo VnExpress