Đó chính là cụm di tích lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật đình – chùa – miếu – đền được xây dựng liền kề, nối tiếp nhau trên cùng một dải đất, trước mặt là bến Đình.
Ngôi đền chính thờ danh tướng Trần Khánh Dư, dân trong vùng gọi tên là đền thờ ông nghè. Nghè chỉ người học rộng lại biết sống hòa đồng cùng nhân dân, và cũng là cách gọi thể hiện sự kính trọng, quý mến của nhân dân trong vùng với ông. Đền được trùng tu vào năm 1995 theo kiểu chữ đinh gồm 3 gian tiền đường và 1 gian hậu cung. Đền thờ Trần Khánh Dư cùng với cụm di tích đình, chùa, miếu Quan Lạn có mối quan hệ rất gắn bó, mật thiết với nhau.
Cụm di tích Đình, Chùa, Miếu Quan Lạn nối tiếp nhau trên cùng một dải đất.
Chuông chùa Quan Lạn.
Tượng thờ tại miếu Quan Lạn.
Điều đặc biệt của cụm di tích đình, chùa, miếu ở xã Quan Lạn là nằm nối tiếp và sát cạnh nhau.
Những hoa văn chạm khắc hình rồng sinh động ở đình Quan Lạn.
Người xưa dùng lõi gỗ lim làm trụ, cột cho đình Quan Lạn.
Hình ảnh linh vật Rồng uốn lượn trên mái đình cổ.
Hình ảnh linh vật Rồng uốn lượn trên mái đình cổ.
...và gắn chặt với đời sống lao động của cư dân làng biển như hội đua thuyền.
Người dân Quan Lạn sử dụng sân đình là nơi gặp gỡ hay chuẩn bị ngư cụ cho những chuyến ra khơi khai thác thủy sản.
Bên cạnh đền thờ Trần Khánh Dư còn có đình Quan Lạn, được xây dựng vào khoảng những năm 1890 -1900, nằm giữa trung tâm của đảo. Đình gồm một bái đường nối với hậu cung. Đình được xây dựng chủ yếu bằng gỗ mần lái, một loại gỗ được xếp vào hàng "tứ thiết", chỉ thấy ở vùng đảo Hải Vân. Trên nóc đình có hình lưỡng long chầu nguyệt, các đầu đao uốn cong, phía trước đình đắp bốn chữ nổi “quốc thịnh dân hưng”, thể hiện ước vọng của người dân trong vùng. Hiện đình còn lưu giữ được 18 đạo sắc phong của các vua triều Nguyễn. Đình thờ thành hoàng làng và các vị tiền nhân có công quai đê lập ấp dựng làng, sau đó kết hợp thờ thêm danh tướng Trần Khánh Dư. Ông thủ từ Hoàng Văn Chương cho biết, đình Quan Lạn đầu tiên được xây dựng ở gần bến Cái Làng, trung tâm thương cảng Vân Đồn. Sau nhiều thế kỷ hưng thịnh, cảng Vân Đồn dần hoang tàn do việc thông thương đã đi chuyển về khu vực kinh kỳ và phố Hiến. Dân Cái Làng cũng vì thế mà chuyển chỗ và ngôi đình cũng bị di chuyển vị trí 2 lần.
Nằm bên cạnh đình là chùa Quan Lạn có tên chữ là Linh Quang tự. Chùa có lối kiến trúc đơn giản. Ngoài cùng là tam quan, sau đến bái đường và hậu cung. Mái lợp ngói mũi hài. Chùa Quan Lạn thờ Phật, mẫu Liễu Hạnh và cụ Hậu (một người gốc Quan Lạn sống hiền lành, phúc hậu và công đức nhiều tài sản cho chùa). Hiện nay chùa còn lưu giữ được đầy đủ hệ thống tượng Phật có giá trị điêu khắc mang đậm phong cách thời Nguyễn, các bức hoành phi, câu đối, sắc phong của vua Thành Thái (1889) phong cho mẫu Liễu Hạnh.
Gần chùa là miếu Quan Lạn. Miếu gồm có 3 miếu nhỏ là miếu Đức Ông, miếu Sao Ỏn và miếu Đồng Hồ, là nơi thờ ba anh em tướng lĩnh họ Phạm đã tham gia chiến đấu trong trận đánh đuổi giặc Nguyên Mông thế kỷ XIII và đã hy sinh ngay trên vùng biển Quan Lạn. Xác của ba ông đã trôi dạt vào bờ ở ba nơi: Sao Ỏn, Đồng Hồ, Bến Đình như vị trí miếu thờ ba ông ngày nay.
Lễ hội Quan Lạn gắn chặt với đời sống lao động của cư dân làng biển và truyền thống đánh giặc giữ nước của cha ông ta. Không gian di tích nơi đây cũng là nơi tổ chức lễ hội Quan Lạn (còn gọi là hội đua bơi Quan Lạn), kỷ niệm chiến thắng Vân Đồn năm 1287 của vị tướng tài Trần Khánh Dư. Ông đã chặn đánh thuyền lương của giặc, góp phần to lớn vào thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông của nhà nước Đại Việt.
Theo TTXVN